Trị vì Minh_Thế_Tông

Bài chi tiết: Gia Tĩnh trung hưng

Sau khi Gia Tĩnh Đế kế vị, triều đình xảy ra sự kiện Đại lễ nghị (大礼议), kéo dài từ năm 1521 đến 1524, xoay quanh việc truy tôn thụy hiệu cho cha của Gia Tĩnh là Hưng Hiến vương làm Hưng Hiến đế (兴献帝). Triều đình chia làm hai phái: Hộ lễ duy trì lễ chế phong kiến và Nghị lễ ủng hộ nguyện vọng cá nhân của Hoàng đế. Kết quả Gia Tĩnh dựa vào hoàng quyền hùng mạnh, giành được thắng lợi cuối cùng, những người phản đối bị phạt trượng, bắt giam, đình bổng (cắt lương) và bãi nhiệm. Cuối cùng, Gia Tĩnh Đế có thể truy tôn cho Hưng Hiến vương làm Duệ Tông Hiến Hoàng đế (睿宗獻皇帝), tôn mẫu thân Tưởng phi làm Hưng Quốc Hoàng thái hậu (興國皇太后). Phụng thờ bài vị Duệ Tông được ở tại Thái miếu, đứng trên bài vị của Vũ Tông quá thế.

Tuy Gia Tĩnh lên ngôi lúc mới 15 tuổi và chưa có nhiều kinh nghiệm nhưng nhờ có Dương Đình Hòa làm nhiếp chính, Gia Tĩnh Đế đã sáng suốt vạch ra nhiều tệ nạn xấu thời Vũ Tông. Ngay sau đó, ông đã thực hiện hàng loạt những cải cách mới, sử xưng Gia Tĩnh tân chánh (嘉靖新政). Trong thời kì này, vua nghiêm minh dùng hình, điều chỉnh quan lại, chỉnh đốn luật lệ triều cương, đại xá thiên hạ, nghiêm cấm hoạn quan can dự triều chính, hoàn thiện chế độ khoa cử, giảm kinh phú dịch, thẩm tra trang viên hoàng thân quốc thích, chia công bằng cho dân chúng, củng cố quân đội đẩy lùi ngoại bang.

Mâu thuẫn xã hội dần dần được xoa dịu. Triều chính đổi mới, quốc khố tăng đáng kể, dân chúng ấm no, hạnh phúc. Thần dân thiên hạ tan dương vị vua mới anh minh, ca tụng công lao của Dương Đình Hòa. Triều Minh tạm thời thay đổi một diện mạo mới khiến hết thảy mọi người đều vui mừng. Thời đại này gọi là Gia Tĩnh trung hưng (嘉靖中兴), rất được các sử gia hậu Minh đánh giá cao.

Chỉnh đốn chính trị

Nồi và nắp tráng men màu vàng với thiết kế các vệt ẩn từ lò nung, từ thời Gia Tĩnh

Từ thời Minh Tuyên Tông Tuyên Đức Hoàng đế, chính trị rơi vào hình tam giác thế lực: Hoàng đế, văn quan và hoạn quan. Đặc biệt là văn quan, nắm trong tay nhiều quyền lực thông qua sử sách, quy củ, dùng pháp chế để khống chế ngai vị hoàng đế, cũng vì đó mà căn bản khiến các ngôn quan hình thành nên thế lực can chánh trọng yếu.

Từ khi Gia Tĩnh Đế kế vị, đả áp hoạn quan, nghiêm cấm hoạn quan can chính, triệt đi nhiều quyền hành. Điển hình là nhóm hoạn quan Bát hổ từng hoành hành trong thời Chính Đức, ông quyết định tước dần quyền lực của bọn chúng, sau đó lưu đày hoặc bắt phải về quê nghỉ hưu. Đối với văn quan, qua cuộc đại lễ nghị về việc danh vị cho cha mẹ, Gia Tĩnh Đế đả kích tập đoàn văn quan, từ đó nảy sinh sự mâu thuẫn vua tôi. Nhất là Dương Đình Hòa, vốn thuộc phe phái văn quan, ông luôn lo lắng vì thế nào cũng có ngày Gia Tĩnh sẽ hãm hại ông nên Dương Đình Hòa một mặt định làm hòa với vua, một mặt thì định từ quan. Gia Tĩnh nhận ra điều đó nên dần dần bãi trừ đi sự ảnh hưởng của Dương Đình Hòa, buộc ông ta cuối cùng phải quyết định từ quan và rút khỏi triều đình. Cuối cùng, Gia Tĩnh Đế thành lập nên cho mình các viên quan mới, đảm bảo hoàng quyền của mình. Từ thời Minh Thành Tổ Vĩnh Lạc Đế, vì dùng hoạn quan để giành hoàng vị nên bãi bỏ nhiều quy chế của Minh Thái Tổ Hồng Vũ Đế, để hoạn quan lạm quyền, đến nay Gia Tĩnh Đế nhất quyết theo Hồng Vũ tổ chế, triệt giải hoàn toàn nhân lực gian nịnh đã tích lũy nhiều đời, mở ra cục bộ cải cách toàn diện.

Chỉnh đốn sự tiêu cực của Hàn lâm viện đã tích lũy nhiều năm, Gia Tĩnh Đế đề cao năng lực thực thụ của Nội các Đại học sĩ, hành chỉnh lại thực quyền, đề cao hoàng quyền trung tâm của Hoàng đế. Đối với ngoại thích, Gia Tĩnh phế đi thế lực họ Trương của dòng dõi Hiếu Thành Kính Hoàng hậu, dẹp trừ nạn ngoại thích.

Khoa cử và Văn học

Đối với chế độ Khoa cử, lấy Khoa bảng làm gốc, Gia Tĩnh Đế sau khi lên ngôi rất xem trọng việc này, nên đã ra sức cải cách và hoàn thiện chế độ khoa cử của nhà Minh. Ông trọng dụng những người ngay thẳng, khích lệ sĩ khí, phát triển giáo dục công năng.

Trong thời Gia Tĩnh, nhiều tác phẩm văn học lớn xuất hiện. Tam quốc diễn nghĩaThủy hử chính là thời kỳ này tạo nên. Lý Thời Trân (李时珍), Lý Khai Tiên (李开先), Từ Văn Trưởng (徐文长) là các văn sĩ nổi danh, tạo nên một thời kỳ văn hóa tự do phóng bút thịnh thế.

Hoàng đế Gia Tĩnh trên chiếc xà lan của mình, trong một cuộn sơn được vẽ vào năm 1538 bởi các họa sĩ không rõ danh tính

Đương thời, Gia Tĩnh Đế thập phần coi trọng Vĩnh Lạc đại điển (永乐大典), do bị đốt mất, Gia Tĩnh Đế tiến hành làm bản sao để cất giữ trong cung, ghi chép lại thời kỳ Vĩnh Lạc Đế trị vì về cách thức chính trị.

Nam uy Bắc lỗ

Đại Việt

Năm 1527, ở Đại Việt, Mạc Đăng Dung đã cướp ngôi nhà Lê sơ, lập ra nhà Mạc. Tuy nhiên, chính quyền của ông ta không được lòng các cựu thần nhà Lê, khiến nước Đại Việt rơi vào nội loạn. Năm 1533, một cựu thần nhà Lê là Nguyễn Kim đưa con cháu họ Lê lên ngôi ở Lan Xang, tái lập nhà Lê, rồi sai sứ vượt biển sang Trung Quốc để cầu viện nhà Minh đánh nhà Mạc. Chúa Bầu Vũ Văn Uyên đang cát cứ chống Mạc ở Tuyên Quang cũng cho người sang Bắc Kinh tố cáo với Gia Tĩnh việc nhà Mạc cướp ngôi. Gia Tĩnh không hoàn toàn có ý định nam chinh, nhưng vào năm 1537, ông vẫn sai tướng Mao Bá Ôn huy động binh lính ở Quảng Tây, Hồ Quảng, Phúc Kiến rồi đem quân xuống đóng gần biên giới Đại Việt. Nhằm phô trương thanh thế mà không phải đem quân sang Đại Việt, năm 1538, Gia Tĩnh lệnh cho Mao Bá Ôn một mặt phao tin sẽ đánh nhà Mạc để trừng trị tội soán vị, mặt khác gửi tối hậu thư buộc nhà Mạc phải hàng phục mình nếu muốn được tha tội. Ngày 14 tháng 5 năm 1539, phía nhà Mạc đã sai người sang dâng biểu xin hàng nhưng nhà Minh không chấp nhận.[2] Để tránh một cuộc chiến rủi ro với Trung Quốc, ngày 3 tháng 11 âm lịch năm 1540, Mạc Đăng Dung đã đích thân đến ải Nam Quan, tự trói mình và dâng biểu, cắt đất, nộp sổ sách để xin hàng nhà Minh.[3] Sau sự kiện này, Mao Bá Ôn cho rút quân, biên giới phía nam yên ổn trở lại.

Mông Cổ

Năm 1550, thủ lĩnh Yểm Đáp nhà Bắc Nguyên đem 10 vạn quân làm loạn ở biên giới nhà Minh. Tổng binh phòng vệ Đại Đồng là một kẻ vô dụng, cơ bản không hiểu biết gì về quân sự, đã đem vàng bạc đút lót Yêm Đáp, đề nghị ông dẫn quân sang đánh nơi khác. Yêm Đáp nhận được vàng bạc liền điều quân vượt Vạn Lý Trường Thành đánh sang phía đông, nhanh chóng chiếm được Kỳ Châu, Mật VânThông Châu, xông thẳng vào Yên Kinh. Gia Tĩnh lệnh cho đem 2 vạn quân giao cho Binh bộ thượng thư Đinh Nhữ Quỳ đánh dẹp, đồng thời kêu gọi quân đội các nơi đến trợ giúp. Các đạo binh mã tập trung ở kinh thành lên tới 10 vạn người. Tuy nhiên quân đội chi viện đã nghe theo sự chỉ đạo của gian thần Nghiêm Tung, kiên quyết không ra tiếp ứng, mặc cho quân Yểm Đáp hoành hành cướp phá. Sau tám ngày cướp bóc liên tục, Yểm Đáp cảm thấy hài lòng nên cho quân rút lui. Một năm sau thất bại nặng nề này, Gia Tĩnh buộc phải mở cửa vùng biên cương để các thương nhân Mông Cổ tự do giao thương.

Thực dân Bồ Đào Nha

Đế quốc Bồ Đào Nha là quốc gia châu Âu đầu tiên thiết lập quan hệ ngoại giao với nhà Minh vào năm 1513. Quan hệ giữa hai quốc gia khá tốt đẹp cho đến khi đế quốc châu Âu này thôn tính vương quốc Malacca, một nước chư hầu của nhà Minh, dẫn đến quan hệ xấu đi. Đỉnh điểm của sự căng thẳng Trung-Bồ thời gian này là vào năm 1521, khi Dương Đình Hòa tuyên bố cắt đứt quan hệ với Bồ Đào Nha và cấm họ đặt đại sứ quán tại Quảng Châu theo thỏa thuận ban đầu, trừ khi Bồ Đào Nha trao trả lại độc lập cho Malacca. Tuy nhiên, phía Bồ Đào Nha đã từ chối tuân theo, dẫn đến trận hải chiến Đồn Môn vào tháng 4 năm đó. Nhà Minh đã đánh bại Bồ Đào Nha trong trận chiến này, buộc họ phải rút lui khỏi hải phận Trung Quốc.[4]

Đến năm 1522, nhà Minh lại đánh bại đế quốc Bồ Đào Nha trong một trận hải chiến khác ở Shancaowan, thuộc Đại Tự SơnHồng Kông ngày nay. Một số lượng lớn thủy thủ Bồ Đào Nha đã bị bắt và tàu chiến của họ bị phá hủy. Hạm đội Bồ Đào Nha buộc phải rút lui về Malacca.[5][6] Bất chấp quan hệ thù địch, các thương nhân Bồ Đào Nha vẫn duy trì việc giao thương buôn bán bất hợp pháp ở bờ biển Phúc Kiến với sự trợ giúp của các thương nhân địa phương tham nhũng có quan hệ chính thức. Mãi đến năm 1535, nhà Minh mới cho phép các thương nhân Bồ Đào Nha có được quyền neo tàu ở các bến cảng và thực hiện hoạt động giao thương, mặc dù không có quyền ở trên bờ.

Quan hệ hai nước phần nào được cải thiện vào thập niên 1550. Khoảng năm 15521553, các thương nhân Bồ Đào Nha có được sự cho phép tạm thời để lưu trữ hàng hóa trên kho được dựng trên bờ, mục đích là để hàng hóa được khô ráo. Một thỏa thuận lịch sử được ký kết vào năm 1557 khi nhà Minh chính thức cho phép người Bồ Đào Nha thành lập một cơ sở giao thương và khu dân cư lâu dài tại Áo Môn (Ma Cao ngày nay), nhưng họ phải trả 500 lạng bạc mỗi năm như là tiền thuê đất cho triều đình nhà Minh. Người Bồ Đào Nha tiếp tục trả tiền thuê hàng năm cho đến năm 1863 để được quyền sinh sống và buôn bán tại khu vực này.[7]

Oa khấu

Sau Loạn Yểm Đáp, Gia Tĩnh lại phải lo đến hải tặc Nhật Bản đang hoành hành ở bờ biển miền Đông Trung Quốc từ những năm thập niên 1550. Đây là một cuộc nổi loạn của bọn cướp biển Oa khấu của Nhật Bản gồm mấy ngàn tên cầm đầu, bao gồm những thành phần như thương nhân, rōnin, kẻ buôn lậu và có cả binh lính. Tuy nhà Minh gọi chúng là "Oa khấu" nhưng thực tế thì hai phần ba nhân lực của toán cướp này lại là người Trung Quốc. Trước đây, nhà Minh từng thiết lập chính sách hạn chế thương mại phi nhà nước với Nhật Bản để dập tắt nạn Oa khấu, trong khi vẫn cho phép buôn bán chính thức theo con đường nhà nước, gọi là Hải cấm. Tuy nhiên, những hạn chế nghiêm ngặt về những hoạt động giao thương trên biển đã nhiều thương gia Trung Hoa lén buôn bán phi pháp với Nhật Bản, để tự bảo vệ quyền lợi của mình. Việc này dẫn đến sự hình thành giai đoạn hai của Oa khấu, khi hải tặc Nhật Bản đồng lõa với hải tặc Trung Hoa và bành trướng lực lượng. Trong thời kỳ này, lực lượng và giới lãnh đạo Oa khấu thay đổi rõ rệt, với thành phần người Trung Quốc tăng lên rất nhiều. Đám cướp này từng đi quấy rối nhiều nước lân cận như Nhật Bản, Triều Tiên và bắt đầu chuẩn bị cướp phá hải phận của Trung Quốc. Nghe tin đó, năm 1552, Gia Tĩnh nghe lời các đại thần, tập trung một đội quân thường trực mạnh để bảo vệ vùng biển.

Năm 1554, giặc Oa đổ bộ vào đất Trung Quốc, đánh bại đội quân tuần tra của nhà Minh ở bờ biển, uy hiếp hai thành phố lân cận Nam KinhHàng Châu. Gia Tĩnh vô cùng lo lắng, phái quân trấn áp mãi nhưng không ngăn chặn được. Năm 1555, hải tặc lại tấn công Hàng Châu, tiến quân ào ạt như sóng dữ, giết chết nhiều người dân. Quân triều đình đến đàn áp cũng bị chúng đánh bại. Năm 1556, thành Đồng Hương thất thủ. Năm 1553, Gia Tĩnh đòi Bộ binh thượng thư Nam Kinh là Trương Kinh đi tuần ở bờ biển, sau vì nghe lời gièm pha của con trai gian thần Nghiêm Tung là Triệu Văn Hoa. Gia Tĩnh đã chém đầu Trương Kinh vì lý do Sợ giặc làm lỡ cơ hội.

Lúc hải tặc Nhật Bản chưa dẹp yên thì trong quân đội triều Minh xuất hiện danh tướng lừng danh Thích Kế Quang. Ông ta huấn luyện quân lính nghiêm khắc và rất có tài thao lược, lại yêu thương quân sĩ hết lòng, Gia Tĩnh cho phép ông làm tổng chỉ huy. Dưới sự lãnh đạo tài tình của Thích Kế Quang cùng các tướng Du Đại DuLưu Hiển, quân đội nhà Minh đã tạo nên chiến thuật "uyên ương trận", liên tục chiếm ưu thế nên mấy lần đánh Oa khấu đều thắng. Đầu năm 1558, quân Minh đánh thắng Oa khấu trong trận quyết định ở Chiết Giang, Phúc Kiến và đốt cháy thuyền chiến của chúng, tiêu diệt tổng cộng hơn mấy ngàn tên cướp. Giặc Oa cuối cùng cũng được dẹp yên.

Sùng phụng Đạo giáo

Một chiếc bình sứ với thiết kế cá tráng men, từ thời Gia Tĩnh.

Gia Tĩnh Đế sau nhiều năm trị vì, vào tuổi trung niên bắt đầu lao vào cuộc sống phóng túng, ăn chơi vô độ, không còn lưu tâm đến chính sự. Ông đâm ra mê đắm Đạo giáo, lạm dụng nhân sĩ, tôn sùng Đạo giáo trong cung, luyện đơn dược để mong trường sinh bất lão. Trong thời gian này, Gia Tĩnh đã xây dựng ba ngôi đền Đạo giáo bao gồm Nhật Đàn, Địa ĐànNguyệt Đàn và mở rộng diện tích của Thiên Đàn. Gia Tĩnh ngoài mê tín Đạo giáo, còn tin tưởng vào điềm lành. Rất nhiều tiểu nhân, gian thần đã bịa đặt ra điềm lành để được hoàng đế ban thưởng, còn những người có ý khuyên can như Hộ bộ chủ sự Hải Thụy thì bị tống vào nhà lao. Nhân sĩ Đào Trọng Văn (陶仲文) và nịnh thần Cố Khải Học (顾可学) do yêu mị chiều chuộng Gia Tĩnh, dần được cất nhắc chức vị.

Gia Tĩnh cũng ham muốn bất tử nên ông cho mời rất nhiều phương sĩ vào cung luyện đan. Do yêu cầu về nguyên liệu luyện đơn dược là lấy kinh lần đầu của phụ nữ, Gia Tĩnh thường xuyên sỉ nhục hành hạ các cung nữ và đối xử rất tàn bạo với họ. Có lần vào năm 1542, nhiều cung nữ vì quá oán hận hoàng đế nên nhân lúc vua đang ngủ đã cùng nhau xông vào hoàng cung lấy dải lụa siết cổ ông cho chết, nhưng bọn họ lại sơ ý thắt nhầm nút chết, nên may thay Gia Tĩnh chỉ ngất đi chứ chưa chết hẳn. Trong lúc ông chưa hồi tỉnh, tất cả các cung nữ tham gia vào vụ phản nghịch này đều bị triều đình xử tội chết. Đây là vụ Nhâm Dần cung biến (壬寅宮變) nổi tiếng trong lịch sử.

Do Gia Tĩnh bỏ bê chính sự nên khi nghe được lời gièm pha của gian thần 48 tuổi là Nghiêm Tung (严嵩), ông đã giao hết chính sự cho hắn vào năm 1539. Nghiêm Tung tuy mưu mô xảo quyệt nhưng lại là kẻ bất tài. Nhưng hắn đã chuyên chánh trong nhiều năm, tàn hại nhiều trung lương như Hạ Ngôn (夏玲), Dương Kế Thịnh (楊繼盛) và Thẩm Luyện (沈鍊). Sự tôn sùng của hoàng đế đối với Đạo giáo đã trở thành gánh nặng tài chính nặng nề cho chính quyền nhà Minh, khiến triều chính dần dần đi xuống, phong trào nhân dân đấu tranh chống triều đình ngày càng mạnh mẽ, nổi bật là Khởi nghĩa thợ mỏ Sơn Đông (山東礦工起義), Khởi nghĩa Trần Khanh (陳卿起義), Khởi nghĩa Thái Bá Quán (蔡伯貫起義).

Trận động đất kinh hoàng nhất mọi thời đại, trận động đất Thiểm Tây 1556 đã làm chết hơn 800.000 người, xảy ra dưới triều đại của Gia Tĩnh.

Diệt họ Nghiêm

Do trung thần Hạ Ngôn khi còn sống từng tiến cử Từ Giai với Gia Tĩnh cho nên sau khi lật đổ Hạ Ngôn, Nghiêm Tung rất cảnh giác với ông ta. Từ Giai thấu hiểu được tình hình này nên bên ngoài vẫn tỏ ra vui vẻ thân thiện, không có biểu hiện gì chống đối Nghiêm Tung. Nghiêm Tung thấy vậy rất hài lòng, nghĩ rằng Từ Giai không có ý hại mình, liền tâu vua xin thăng chức cho Từ Giai lên làm Lễ bộ thượng thư Đông Các đại học sỹ, cho phép tham dự triều chính. Tuy nhiên bản thân Nghiêm Tung cũng không ngờ rằng Từ Giai đang tìm cách để trừ khử y.

Đầu năm 1560, Vĩnh Thọ cung nơi Gia Tĩnh Đế ở bị hỏa hoạn, ông đành chuyển qua sống ở Điện Ngọc Hy. Điện này vừa nhỏ vừa thấp, lại thiết kế sơ sài, không chắc chắn. Gia Tĩnh hỏi Nghiêm Tung, Nghiêm Tung khuyên Gia Tĩnh Đế đừng xây lại Vĩnh Thọ cung mà qua ở tạm tại Thành Nam cung (nơi mà Minh Anh Tông ở lúc trước khi mất ngôi hoàng đế). Gia Tĩnh tỏ ra không hài lòng điều này nên lại hỏi Từ Giai (徐階), y khuyên Gia Tĩnh nên cố chịu sống tạm ở Ngọc Hy điện một năm để lấy thời gian đó mà xây dựng lại cung Vĩnh Thọ. Gia Tĩnh thấy rất có lý nên bằng lòng. Năm 1561, Vĩnh Thọ cung đã hoàn thành, Gia Tĩnh đã đổi tên nó thành Vạn Thọ cung, ban thưởng rất hậu cho Từ Giai và trách Nghiêm Tung là kẻ tối dạ. Nghiêm Tung bắt đầu lo lắng cho địa vị sau này của mình.

Sự xuất hiện của một hàng loạt nhân tài khiến Gia Tĩnh thay đổi thái độ với Nghiêm Tung. Hắn bị thất sủng và dần bị cô lập hoàn toàn trong triều. Các đại thần trong triều cũng căm ghét ông ta, họ muốn kiên kết với nhau để trừ khử gia đình họ Nghiêm. Gia Tĩnh nhận ra nguyện vọng của các quần thần, liền hỏi Đại học sĩ Từ Giai, Thích Kế Quang và các đại thần cách trừng trị Nghiêm Tung, họ đồng thanh đáp: "Tội ác của cha con họ Nghiêm nhiều không kể xiết, bệ hạ nên xử lý thật đúng đắn và dứt khoát, nếu không hậu họa sẽ khó lường".

Gia Tĩnh làm theo lời Từ Giai, hạ lệnh cách chức Nghiêm Tung vào tháng 4 năm 1562 và ép phải từ quan về quê, đồng thời tống con ông ta là Nghiêm Thế Phan vào ngục, sau đày hắn tới bán đảo Lôi Châu, Quảng Đông. Như vậy, Gia Tĩnh đã trừng trị hết cha con họ Nghiêm. Sau khi lật đổ cha con Nghiêm Tung, Đại học sĩ Từ Giai nắm triều chính, với nhiều chính sách đổi mới của Từ Giai, triều Gia Tĩnh đã khởi sắc trong 5 năm cuối cùng.